Cây Ngâu, có tên khoa học là Aglaia odorata Lour., còn được biết đến với tên gọi khác là Mộc ngưu, thuộc họ Xoan (Meliaceae). Cây này thường được sử dụng các bộ phận như cành, lá và hoa. Hoa Ngâu thường được dùng để ướp chè, có công dụng chữa các chứng khí uất, ăn không tiêu và bụng đầy trướng.
Giới thiệu về Cây Ngâu
Mô tả dược liệu
Theo Dược sĩ CKI Nguyễn Quốc Trung, giảng viên Cao đẳng Dược TPHCM cho biết, Cây Ngâu là loại cây nhỡ, có chiều cao trung bình từ 4 – 7m. Lá kép lông chim, mọc so le, dài khoảng 4 – 9cm và rộng 1,5 – 3cm, gồm 5 – 7 lá chét nhỏ. Lá chét tận cùng thường lớn hơn, có hình trứng ngược, đầu tù, gốc thuôn, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, cuống lá có cánh.
Cụm hoa mọc thành chùm ở kẽ lá, cuống hoa mảnh, có thể đơn hoặc phân nhánh. Hoa màu vàng, có mùi thơm đặc trưng, có thể là hoa lưỡng tính hoặc hoa đực do tiêu giảm.
Quả thuộc loại quả hạch, hình cầu, khi chín có màu đỏ tươi. Mùa hoa quả thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 7.
Phân bố sinh thái
Chi Aglaia Lour. bao gồm một số loài cây gỗ hoặc cây bụi, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á. Tại Việt Nam, chi này có hơn 30 loài, trong đó cây Ngâu vốn là cây mọc hoang dại và đã được trồng phổ biến ở nhiều nơi. Cây được trồng chủ yếu với mục đích làm cảnh và lấy hoa ướp trà. Ngoài ra, cây cũng phân bố nhiều ở Trung Quốc, Thái Lan và Philippines.
Cây Ngâu thuộc loại cây ưa sáng, có thể chịu bóng nhẹ, thường mọc tự nhiên ở các kiểu rừng thưa. Cây có bộ rễ phát triển mạnh và khả năng chịu hạn tốt.
Thành phần hóa học
Lá cây Ngâu chứa các hợp chất như aglaiastatin A, aglaiastatin B, aglaiastatin C, rocaglaol, pyrimidinon và rocaglamid.
Lá còn chứa tinh dầu, trong đó có các thành phần như linalol và hendecan. Các chất có hàm lượng cao nhất trong tinh dầu là β-caryophyllen (22,25%), α-humulen (17,58%) và caryophyllenon I (17,21%).
Công dụng của cây Ngâu
Cây Ngâu có nhiều công dụng đa dạng, được ứng dụng rộng rãi trong cả Y học cổ truyền và Y học hiện đại.
Theo Y học cổ truyền
- Hoa Ngâu: Có vị cay, ngọt, tính bình, giúp hành khí, giải uất.
- Cành lá: Tính bình, hơi ôn, có tác dụng hoạt huyết, tán ứ, tiêu thũng, giảm đau.
- Rễ: Có công dụng gây nôn.
Hoa Ngâu thường được dùng để ướp trà, cất dầu thơm, hoặc chế hương liệu. Nó cũng có tác dụng chữa các chứng khí uất, đau tức ngực, ăn không tiêu, đầy chướng bụng. Rễ và quả tươi, giã nát pha với nước, dùng để gây nôn. Cành lá cũng có tác dụng gây nôn và được dùng để chữa hen suyễn, đờm tắc nghẽn, sốt rét, vàng da. Liều dùng thông thường là 10 – 16g sắc uống. Dùng ngoài, cành lá giã nát đắp hoặc nấu nước tắm trị ghẻ, mụn nhọt.
Theo Y học hiện đại
Cây Ngâu đã được nghiên cứu về tác dụng chống ung thư. Các chất aglaiastatin A và aglaiastatin B có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào u K-ras-NRK in vitro với nồng độ ức chế 50% lần lượt là 5 ng/ml và 5,1 g/ml. Như vậy, các aglaiastatin có tác dụng ức chế chức năng sinh ung thư.
Bài thuốc có chứa cây Ngâu
Giảng viên Trường Cao đẳng Dược Hà Nội cho hay, Cây Ngâu được sử dụng trong nhiều bài thuốc, cụ thể:
- Chữa sốt, vàng da:
- Lá Ngâu, lá hoặc quả dành dành, Mã đề, mỗi vị 10 – 16g, sắc uống.
- Thuốc gây nôn để giải độc thực phẩm, đờm tích lâu ngày:
- Lá Ngâu 20g, giã nát, vắt lấy nước cốt uống, hoặc dùng 30g sắc uống. Sau khi nôn hoặc xổ đờm, ăn cháo đậu xanh và dùng thuốc khác điều trị triệu chứng còn lại.
- Bài thuốc chữa bế kinh:
- 10g hoa Ngâu cùng 50ml rượu trắng, trộn đều, thêm nước, hấp cách thủy đến khi hoa chín nhừ. Uống 1 lần/ngày trước khi ngủ, bắt đầu trước kỳ kinh 5 ngày và duy trì liên tục.
- Hỗ trợ điều trị hen suyễn:
- 15g hoa Ngâu hãm với 1 lít nước sôi trong 30 phút, uống trong ngày. Hoặc dùng trà ướp hoa Ngâu hàng ngày.
- Chữa đau nhức xương khớp:
- 30g cành lá Ngâu, 20g Dây đau xương, 10g Ké đầu ngựa, 10g Cốt toái bổ. Sắc với 700ml nước, thu lấy 200ml, chia 3 lần uống/ngày. Dùng liên tục 10 ngày.
- Chữa bầm tím, sưng đau do ngã:
- 50g lá Ngâu và 50g hoa Ngâu, đun với 700ml nước đến khi cô thành cao. Đắp cao lên vùng sưng đau 2 lần/ngày, mỗi lần 2 tiếng.
Lưu ý khi sử dụng
Hiện chưa có nghiên cứu về việc sử dụng cây Ngâu cho phụ nữ có thai và cho con bú. Do đó, không nên tự ý sử dụng mà cần tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng.