Chia sẻ:

Cỏ sữa: Vị thuốc quý ven đường

Cỏ sữa là một loài cây dại mọc hoang ở nhiều vùng trên khắp đất nước ta. Loài cây này đã được ghi nhận với nhiều công dụng hữu ích và được người dân địa phương sử dụng phổ biến. Tuy vậy, vẫn còn nhiều người chưa nhận ra hoặc chưa biết đến những lợi ích mà cây cỏ sữa mang lại.

Mô tả dược liệu Cỏ sữa

Tên khoa học và danh pháp quốc tế

Ở Việt Nam, có hai loại cỏ sữa phổ biến:

Cỏ sữa lá nhỏ: Tên khoa học Euphorbia thymifolia L., thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Cỏ sữa lá lớn (còn gọi là cỏ sữa lông hay phi dương thảo): Tên khoa học Euphorbia hirta L., cũng thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).Đặc điểm thực vật

Cỏ sữa lá nhỏ: Là loài cây nhỏ, mảnh, mọc sát mặt đất. Thân và cành có màu tím đỏ. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc thon dài (dài nhất 7 mm, rộng khoảng 4 mm), mép lá hơi khía tai bèo. Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành xim đơn, mang ít hoa. Quả nang đường kính 1,5 mm có lông. Hạt nhẵn, dài 0,7 mm, có 4 góc. Toàn cây khi bấm đều chảy nhựa mủ trắng.

Cỏ sữa lá lớn: Là cây sống hằng năm hoặc sống dai, thân mọc thẳng cao 30 – 40 cm, màu đỏ nhạt, phủ lông vàng nhạt. Lá xanh lẫn đỏ, mọc dài, hình mác (dài 2 – 3 cm, rộng 5 – 15 mm), mép có răng cưa nhỏ, cuống lá ngắn. Hoa nhỏ, màu trắng đỏ nhạt, mọc thành xim đơn, sau chuyển xanh rồi nâu. Hạt màu đỏ nhạt, nhỏ, bề mặt xù xì.

Nhân dân thường sử dụng cỏ sữa lá lớn nhiều hơn cỏ sữa lá nhỏ.

Phân bố, thu hái và chế biến

Theo Dược sĩ CKI Nguyễn Quốc Trung,  giảng viên Cao đẳng Dược TPHCM cho biết, Cả hai loại cỏ sữa đều mọc hoang khắp nơi ở Việt Nam, ưa đất sỏi, đá, thường thấy ở kẽ gạch, sân xi măng, ven đường ray xe lửa.

Thời gian thu hái: mùa hè. Sau khi thu hái, rửa sạch, sao vàng hoặc phơi khô để dùng dần.

Phân bố tại các nước: Ấn Độ, Indonesia, Trung Quốc, Philippines.

Bộ phận sử dụng

Sử dụng toàn cây bao gồm: thân, rễ và lá.

Thành phần hóa học

Cỏ sữa lá nhỏ: Toàn cây chứa alkaloid. Thân và lá chứa cosmosiin (0,037%). Rễ chứa taraxerol, tirucallol và myrixyalcohol.

Cỏ sữa lá lớn: Chứa axit galic (một loại glucosid độc) và nhựa. Toàn cây có taraxerol, β-sitosterol, jambulol, axit melissic, tinh dầu, alkaloid, quercetin, xanthorhamnin. Thân chứa friedelin, myrixylalcohol, hentriacontan. Hoa tươi có axit ellagic

Tác dụng dược lý

Theo Y học cổ truyền

Cỏ sữa lá nhỏ và lá lớn: vị cay, chua, tính mát, hơi độc.

Quy vào ba kinh: phế, bàng quang, đại tràng.

Tác dụng: thanh nhiệt, giải độc, thu liễm, giảm ngứa. Tác dụng thu liễm giúp nhanh khô và lành vết thương đối với mụn lở, ngứa.

Theo Y học hiện đại

Cỏ sữa lá nhỏ: Nhựa mủ gây xót niêm mạc, độc với cá và chuột. Dung dịch cỏ sữa lá nhỏ (nồng độ 1:20 – 1:40) ức chế sự sinh sản của vi khuẩn lỵ trực trùng (S. sonnei, S. flexneri, S. shiga). Ngoài chữa lỵ, cây còn được dùng diệt sâu bọ, duốc cá (Ấn Độ), giã đắp chữa bệnh ngoài da và vết thương (Malaysia, Ả Rập).

Cỏ sữa lá lớn: Hoạt chất liều nhỏ có độc với súc vật (gây ngừng hô hấp, tim đập nhanh rồi chậm lại). Không tác dụng trên da, niêm mạc nhưng gây xót dạ dày. Ở Malaysia, dùng chữa đau mắt, loét giác mạc, bệnh ho, hen. Năm 1975, Việt Nam dùng cao nước cỏ sữa lá lớn phối hợp hoàng đằng sản xuất thuốc trị lỵ.Liều dùng và cách dùng

Cỏ sữa lá nhỏ: Chữa lỵ, phổ biến ở trẻ em.

Trẻ em: 15 – 20 g, có thể đến 50 g, sắc thuốc.

Người lớn: 100 – 150 g.

Thời gian điều trị: 5 – 7 ngày. Có thể phối hợp với rau sam.

Cỏ sữa lá lớn:

Dùng trong: 6 – 9 g/ngày, sắc uống.

Dùng ngoài: lượng thích hợp.

Liều độc với súc vật: 1 g cây khô/1 kg thể trọng.

Một số bài thuốc

Trị mụn lở, ngứa ngoài da: 200 – 300 g cỏ sữa tươi hoặc khô, sắc nước đặc, tắm rửa ngày một lần, xoa kỹ lên chỗ lở.

Chữa lỵ, tiêu chảy phân nhầy máu: 100 g cỏ sữa tươi hoặc 10 – 12 g khô, sắc uống.

Giảng viên Trường Cao đẳng Dược Hà Nội cho hay, theo Y học cổ truyền, do cỏ sữa có tính hơi độc nên phụ nữ có thai cần thận trọng khi sử dụng.

Share this post