1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars (5 votes, average: 1,80 out of 5)
Loading...
Chia sẻ:

3 Công dụng cần biết của Vitamin K đối với sức khoẻ cơ thể

Vitamin K là đồng yếu tố cần thiết cho quá trình carboxyl hóa dư lượng axit glutamic trong nhiều protein phụ thuộc vitamin K có liên quan đến quá trình đông máu, chuyển hóa xương, ngăn ngừa quá trình khoáng hóa mạch máu và điều hòa các chức năng khác nhau của tế bào.

Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu điều này cùng Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur Tp. HCM nhé.

3 Công dụng cần biết của Vitamin K

1. Tác động đến sự đông máu của vitamin K

Theo giảng viên Cao đăng Dược TPHCM cho biết: Khả năng liên kết các ion canxi (Ca2+) là cần thiết để kích hoạt một số yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K, hoặc protein, trong chuỗi đông máu. Thuật ngữ ‘dòng thác đông máu’ đề cập đến một loạt các sự kiện, mỗi sự kiện phụ thuộc vào nhau, làm ngừng chảy máu thông qua hình thành cục máu đông.

Quá trình γ-carboxyl hóa phụ thuộc vào vitamin K của dư lượng axit glutamic cụ thể trong các protein đó giúp chúng có thể liên kết với canxi. Các yếu tố II (prothrombin), VII, IX và X tạo nên cốt lõi của dòng thác đông máu. Protein Z dường như tăng cường hoạt động của thrombin (dạng hoạt hóa của prothrombin) bằng cách thúc đẩy sự liên kết của nó với phospholipid trong màng tế bào.

Protein C và protein S là các protein chống đông máu cung cấp khả năng kiểm soát và cân bằng trong chuỗi đông máu; protein Z cũng có chức năng chống đông máu. Các cơ chế kiểm soát dòng thác đông máu tồn tại vì đông máu không kiểm soát được có thể đe dọa tính mạng như chảy máu không kiểm soát được. Các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K được tổng hợp ở gan. Do đó, bệnh gan nặng dẫn đến nồng độ các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K trong máu thấp hơn và tăng nguy cơ chảy máu không kiểm soát được (xuất huyết).

2. Điều trị chống đông đường uống với thuốc kháng vitamin K

Một số người có nguy cơ hình thành cục máu đông cao hơn, có thể chặn dòng máu chảy trong động mạch tim, não hoặc phổi, dẫn đến nhồi máu cơ tim (đau tim), đột quỵ hoặc thuyên tắc phổi tương ứng. Sự đông máu bất thường không liên quan đến việc hấp thụ quá nhiều vitamin K và không có độc tính nào được biết đến liên quan đến vitamin K1 hoặc vitamin K2.

Một số thuốc chống đông đường uống, chẳng hạn như warfarin (Jantoven, trước đây gọi là Coumadin), ức chế đông máu bằng cách đối kháng với hoạt động của vitamin K. Warfarin ngăn chặn quá trình tái chế vitamin K bằng cách ngăn chặn hoạt động của VKOR, do đó tạo ra sự thiếu hụt vitamin K chức năng. Quá trình γ-carboxyl hóa không đầy đủ của protein đông máu phụ thuộc vitamin K cản trở dòng thác đông máu, ức chế sự hình thành cục máu đông.

Theo cẩm nang sức khoẻ một lượng lớn vitamin K trong chế độ ăn uống hoặc bổ sung có thể khắc phục tác dụng chống đông máu của thuốc kháng vitamin K; do đó, những bệnh nhân dùng các loại thuốc này được cảnh báo không nên tiêu thụ lượng vitamin K rất lớn hoặc rất thay đổi. Các chuyên gia hiện khuyên nên bổ sung vitamin K theo chế độ ăn hợp lý, liên tục đáp ứng các khuyến nghị về chế độ ăn uống hiện tại (90-120 μg/ngày) cho những bệnh nhân dùng thuốc kháng vitamin K như warfarin.

Thực phẩm chứa nhiều Vitamin k

3. Tạo khung xương và phòng ngừa vôi hóa mô mềm

Quá trình γ-carboxyl hóa phụ thuộc vào vitamin K rất cần thiết đối với một số protein liên quan đến xương, bao gồm osteocalcin, protein yếu tố chống đông máu S, protein glutamate γ-carboxyl hóa (Gla) ma trận (MGP), protein giàu Gla (GRP) và periostin (ban đầu được gọi là yếu tố đặc hiệu nguyên bào xương-2). Osteocalcin (còn được gọi là protein Gla của xương) được tổng hợp bởi các nguyên bào xương (tế bào tạo xương); sự tổng hợp osteocalcin được điều chỉnh bởi dạng hoạt động của vitamin D, 1,25-dihydroxyvitamin D (calcitriol).

Khả năng liên kết canxi của osteocalcin đòi hỏi quá trình γ-carboxyl hóa phụ thuộc vitamin K của ba gốc axit glutamic. Mặc dù chức năng của nó trong quá trình khoáng hóa xương vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng osteocalcin cần thiết cho sự phát triển và trưởng thành của các tinh thể canxi hydroxyapatite.

Theo giảng viên Liên thông cao đẳng Dược TPHCM cho biết: Protein S dường như đóng một vai trò trong quá trình phân hủy xương qua trung gian hủy cốt bào. Những người bị thiếu protein S di truyền bị các biến chứng liên quan đến tăng đông máu, cũng như hoại tử xương. Protein S có thể liên kết và kích hoạt các thụ thể thuộc họ TAM tham gia vào quá trình thực bào. Đột biến trong thụ thể TAM có thể dẫn đến suy giảm thị lực, khiếm khuyết quá trình sinh tinh, rối loạn tự miễn dịch và rối loạn tiểu cầu.

 MGP đã được tìm thấy trong sụn, xương và mô mềm, bao gồm cả thành mạch máu, nơi nó được tổng hợp và tiết ra bởi các tế bào cơ trơn mạch máu. MGP có liên quan đến việc ức chế vôi hóa ở nhiều vị trí khác nhau, bao gồm sụn, thành mạch, sợi đàn hồi của da và mạng lưới trabecular trong mắt. Hơn nữa, một số VKDP, bao gồm cả MGP, có liên quan đến các vị trí vôi hóa trong động mạch, da, thận và mắt trong một số tình trạng di truyền, chẳng hạn như pseudoxanthoma elasticum và beta-thalassemia.

Các protein phụ thuộc vitamin K, GRP và periostin, cũng được tổng hợp trong mô xương, nhưng vai trò của chúng trong chuyển hóa xương vẫn chưa rõ ràng. Biểu hiện ở da người bình thường và các mô mạch máu, GRP đã được tập trung tại chỗ với các khoáng chất bất thường trong ma trận ngoại bào ở các động mạch bị vôi hóa và tổn thương da bị vôi hóa. Được biểu hiện ở hầu hết các mô liên kết, bao gồm cả da và xương, periostin ban đầu có liên quan đến sự kết dính và di chuyển của tế bào. VKDP này dường như cũng thúc đẩy sự hình thành mạch máu trong quá trình thoái hóa van tim và phát triển khối u.

Nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng hoạt động γ-glutamylcarboxylase giảm và/hoặc khả dụng sinh học của vitamin K thấp hơn có thể làm giảm hoạt động của VKDP và góp phần gây ra các khiếm khuyết về khoáng hóa xương và vôi hóa mô mềm bất thường.

Sưu tầm: Thạc sĩ Trần Thị Minh Tuyến

XEM THÊM: DUOCHOCVIETNAM.EDU.VN

Share this post